Miền Bắc sau những năm biến động, loạn lạc của thế kỷ XX đã đứt quãng văn hóa rất kinh khủng. Ví dụ ở làng Văn La, xã văn Võ, thuộc Chương Mỹ, Hà Nội mà tôi vừa đến là khá rõ.
Hôm đó về quê cậu phóng viên trong báo ở làng Văn La, vào đình làng thì thấy một ngôi đình sạch sẽ, yên tĩnh và nguyên vẹn. Ông thủ từ mở cửa mời vào. Đình treo đầy hoành phi câu đối khảm trai. Chính giữa là bức hoành phi Văn Khắc Phối... Tôi hỏi chuyện ông từ, xem đình thờ Thành hoàng là vị nào... Đang vui vẻ giới thiệu đình, mặt ông từ trở nên trầm lắng và buồn bã. Ông bảo: Không biết thờ ai, do trộm lấy hết sắc phong rồi. Tôi nói: Văn tế, văn khấn cũng có thể biết. Ông nói, không có văn tế. Tôi vào hậu cung xem bài vị, ôi trời, bài vị không có chữ... Tóm lại là lâu nay ông từ chỉ biết ngủ trông trộm và giữ hương khói thôi chứ Ngài là ai thì chịu. Buồn lắm mà cả làng không biết tính sao...
Văn khắc phối
Máu giang hồ nổi lên, tôi nói, qua câu đối cũng có thể biết đôi chút về thân thế , công lao người được thờ nên cháu sẽ chụp lại và về dịch để các cụ biết thêm được chút nào hay chút đó.
Thế là hì hục chụp và về mày mò dịch, chữ nào không hiểu lên hỏi sư phụ, dịch xong mang cụ thẩm định lại, cuối cùng cũng tạm ổn. Vậy mà việc dịch của cháu gây cơn sốt cho làng, như người khát nước được uống nước dừa tươi... Hii, các cụ mở hội ba ngày, nhà cháu không về được thì các cụ gửi cho lộc là hai cái bánh chưng và con gà trống ( nó gáy từ ba rưỡi sáng.. Hii). Nội dung câu đối thấy Thần là vị có công lao hiển hách, đi sử Tàu, bình Chiêm, công lao được "Thiên tử trọng" rồi "Vị quán vương hầu"- đứng đầu vương hầu... Tuy nhiên, danh tính Ngài thì vẫn đang là câu hỏi sẽ phải làm tiếp.
Sau đây là một số nội dung cụ thể:
TRẠC GIÁP ĐỆ, SỨ HÁN KINH,
BƯU BÍNH HÙNG VĂN, TRUNG NGOẠI PHỤC
Đăng
khoa bảng, đi sứ Tàu, văn chương hào hùng, trong ngoài khâm phục
( Mùa hè năm Kỷ Mùi- 1919)
TÒNG TRIỆU TỔ PHÙ LÊ ĐẾ,
CHẤN DƯƠNG NGHĨA LIỆT, CỔ KIM TRUYỀN
Theo
triệu tổ giúp vua Lê, nghĩa liệt chói lòa, xưa nay truyền tụng
( Cử
nhân Tạ Đình Uyển soạn, Tả Văn Hội cung tiến)
TƯỚNG CÔNG KIẾN HỒNG HUÂN, SỨ HÁN,
BÌNH CHIÊM, DANH THÙY VŨ TRỤ
Tướng
công dựng nghiệp lớn, đi sứ Tàu, đánh dẹp
quân Chiêm, danh tiếng bao trùm vũ trụ.
(Triều
Bảo Đại, mùa đông năm Mậu Dần, 1938 –
Tú
tài, Nguyên Nghị viên, Hàn lâm Lê Văn Sinh soạn )
SINH HƯƠNG KHÂM VĨ LIỆT, TÁN TRỊ
PHỤ QUỐC, VỊ QUÁN VƯƠNG HẦU
Quê
hương tôn kính công lao, giúp vua giúp nước, đứng đầu vương hầu.
(Hội Thương mại xã
Văn La cung tiến)
HÁCH HÁCH THẦN CÔNG, XUYẾN NGA SƠN
DĨ BẮC
Hiển hách công Thần, xuyên suốt từ núi
Nga sang Bắc
(Triều Bảo Đại, mùa đông năm Bính Tý, 1936. Cựu
Lý trưởng, nguyên Chánh hội Nguyễn Đức Mao làm lại như cũ)
DƯƠNG DƯƠNG THÁNH TRẠCH, CÙNG HÁT THỦY
NHI ĐÔNG
Mênh mông ơn Thánh, như dòng sông Hát chảy sang Đông
(Triều Tự Đức, mùa thu năm Kỷ Mão 1879, Cựu Lý
trưởng Nguyễn Đức Hòa cung tiến)
SỨ HÁN VĂN DANH TRUYỀN BẮC ĐỊA
Đi sứ Tàu, văn tài lừng danh đất Bắc
( Mùa xuân năm Bảo Đại thứ nhất – 1925)
BÌNH CHIÊM VÕ LIỆT CHẤN NAM THIÊN
Dẹp loạn Chiêm, võ công chấn động trời
Nam
( Hội Tư văn
xã Văn La cung tiến)
Đức bác thánh văn đằng vũ trụ/ Uy dương thần vũ chấn Hoa Di
Vụ khoát tinh huy chương thánh đức/ Nhật lâm nguyệt chiếu diệu thần uy
Hậu cung, có tượng nhưng bài vị không chữ
Nam Quốc Phan Hàn
Trong những chữ ở đây, cũng có một chữ từ điển không có, kính phiền bác Bu thẩm định. Đó là trán của nhà hậu cung ghi bốn chữ Nam Quốc Phan Hàn , chữ Phan ( phiên) lại có bộ trúc đầu thay vì bộ thảo.
Bắc Thần Kỳ Sở, chữ Thần có bộ Miên, mời bác Bu xem ạ.
Mời các bác xem, và góp ý thêm.