Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

RƯỚC TIẾN SĨ

Quê tôi từ xưa cho đến nay, Trung thu bao giờ cũng gắn liền với Tiến sĩ giấy. Tục đó chưa bao giờ đứt quãng, kể cả thời chiến tranh. Hồi nhỏ, từ đầu tháng 8 bọn trẻ chúng tôi đã đến nhà ông Lạc, một gia đình chuyên làm đồ trung thu để xem làm TS. Mỗi ông TS thật sự là một tác phẩm nghệ thuật.
Có ba loại TS. Loại thông thường là mặt mẹt, mặt chỉ in trên giấy. Loại này ít tiền nhất, một ông kèm theo 4 cái cờ đuôi nheo là 2 hào, chắc bằng 10 ngàn bây giờ.

Loại thứ hai là TS mặt lai, tức là mặt nổi khối, mũ áo, lọng che đều đẹp và lớn hơn rất nhiều. Giá gấp 5 lần loại thứ nhất.

Loại đặc biệt thì đẹp hơn nữa, hai ống chân cũng nối, đôi hia cũng nối.
Dù loại nào thì hai biển TS cũng đều in bằng khuôn có hai chữ Hán TIẾN SĨ màu tím rất đẹp. Áo có hình thủy ba, bố tử… như thật.

Không hiểu sao mẹ tôi thường chỉ mua cho tôi ông TS mặt mẹt, nhưng bao giờ mâm cỗ trung thu cũng rất đầy đặn. Cỗ bày trên mâm chữ nhật sơn son, ông TS ngồi chính giữa, bốn góc cắm bốn lá cờ. Trên mâm có ngũ quả, có na, có hồng ngâm, bánh trái. Mâm đặt trên cái cối đá đặt dưới tán cây ngâu già, trải cái chiếu hoa, cả nhà cũng ngồi ngắm trăng. Thật là vui.



Có thể nói xem TS giấy trưng bày ở Viện BT Mỹ thuật tôi thấy cũng không đẹp bằng TS nhà ông Lạc quê tôi xưa. Và cả làng, nhiều nhà làm TS nhưng không ai sánh được với nhà ông Lạc.

Nhà ông rất nghèo, bà vợ mắt xấu kèm nhèm và ba người con là chị Thìn, anh Tỵ và chị Trật. Ai cũng hiền lành, và khéo tay. Ông bà đã mất từ lâu, ngôi nhà mặt đường cũng đã bán nên không còn hiệu TS nhà ông Lạc nữa. Cách đây vài năm, gặp lại anh Tỵ tôi có hỏi những khuôn mẫu biển TS, thủy ba đó còn không thì anh nói bỏ lâu rồi, không giữ được. Thật là tiếc. Tôi nói: TS gia đình anh làm là một ký ức đẹp của tuổi thơ chúng tôi.

Xưa nữa, trước 1954 thì làng tôi có gia đình làm hẳn kiệu sơn son thiếp vàng như ở đình, nhưng cỡ nhỏ hơn, để rước TS đêm trung thu. Đám rước có cờ biển, trống phách rộn rã đi quanh làng, trên kiệu nhất định là một ông TS giấy cỡ đặc biệt…
Có ông chơi ngông đóng giả TS làm kiệu cho người khiêng quanh làng. Tất nhiên kèm theo đám rước đó là phải làm dăm mâm cơm rượu thết đãi phu kiệu... Xưa ăn chơi Trung thu vậy đó.
--> Read more..

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Nên đổi thành Văn hiến từ, thờ danh nhân đất Việt

                                                                                    
Công trình Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc đang gây tranh cãi về việc thiết kế, bài trí thờ tự bài vị Khổng Tử. Chúng tôi cho rằng, nên đổi công trình này thành “Văn Hiến Từ” thờ các nhà khoa bảng Việt Nam có công lao đối với đất nước.

Có nên thờ Khổng Tử không?

Hiện nay Trung Quốc khởi xướng cơn sốt đọc lại Luận ngữ và mở hàng loạt Viện Khổng Tử nhằm lan tỏa quyền lực mềm, đẩy mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Do đó, ngay tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến phản đối. Giáo sư Đại học Bắc Kinh, Lý Linh, xuất bản cuốn sách có tên “Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ”, NXB Nhân dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007,  trong đó kết luận: “Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng Tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Don Quixote.”

Lúc sống không được trọng dụng nhưng các triều đại sau lại ra sức lợi dụng Khổng Tử để củng cố quyền lực của họ, khiến cho hình ảnh thật sự của người trí thức cổ đại Khổng Khâu khác hẳn với “Đại thành chí thánh Văn Tuyên Vương” sau này. Đổng Trọng Thư (175-105 trước CN) đã sửa đổi học thuyết của Khổng Tử, biến những đế chế vốn dĩ được thiết lập dựa trên bạo lực trở thành biểu hiện của đạo trời. Nguyên lý của Đổng Trọng Thư, ghi trong cuốn Lịch sử Tiền Hán, cho rằng “trời không đổi gì thì không gì phải đổi” (“thiên bất biến đạo diệc bất biến”) là căn cứ để khẳng định tính hợp pháp của triều đại, rằng sự trường tồn của các triều đại là việc đã được vũ trụ an bài.

Ngay ở Trung Quốc cũng có những tiếng nói phản đối như vậy. Do đó, lập mới miếu thờ Khổng Tử vốn đã có rất nhiều ở Việt Nam là việc không cần thiết, không nên làm và không phù hợp với thực tế hiện nay.

Nên thờ danh nhân Việt Nam

Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc là công trình mới hoàn toàn, do đó nên đổi thành “Văn Hiến Từ” nghĩa là Đền Văn hiến, và thay vì thờ Khổng Tử  với các học trò của ông ta, nơi đây là nơi thờ các vị khoa bảng Việt Nam có công lao to lớn với đất nước.

Hai chữ “ Văn hiến” lấy từ “Đại cáo bình Ngô” của Ức Trai Nguyễn Trãi (1380-1442). Ngay sau khi đại thắng quân Minh, giành lại đất nước, nhưng mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập này, Nguyễn Trãi không nói đến võ công hiển hách mà khẳng định “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông, bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Sự khác biệt về văn hiến thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Trải qua 6 thế kỷ, nhận định về vai trò của văn hiến, văn hóa đó của Nguyễn Trãi vẫn có giá trị thời sự và trường tồn.

Ngôi đến thờ có thể chọn thờ các vị khoa bảng tiêu biểu nhất. như Lê Văn Thịnh, Chu Văn An (12921370), Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn (1726 - 1784), và Nguyễn Bỉnh Khiêm (14911585). Phối thờ tại “Văn Hiến Từ” là các vị đỗ đại khoa và trung khoa của Vĩnh Phúc.


Nếu “Văn Hiến Từ” được thực hiện, đây sẽ là ngôi đền độc đáo, khác biệt nhằm phát huy truyền thống hiếu học, truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, của người Vĩnh Phúc…
--> Read more..

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

SƯ TỤNG KINH Ở ĐÁM TANG



Hôm rồi, đi viếng nhạc mẫu của một anh bạn, thấy có mấy vị sư mặc áo vàng, một vị đội mũ "hiệp chưởng" và mấy bà vãi đi theo. Đám tang được dẫn đầu bằng xe ô tô bốn chỗ, trên nóc thiết trí tranh Phật A Di Đà kết đầy hoa lan... Sau hỏi mới biết, dịch vụ đó hết... 27 triệu đồng. Số tiền có thể lo được cả một đám tang ở quê tôi.

Lại nhớ tháng trước ông bác tôi tạ thế, từ 1 tuần trước các vãi đã đến tụng kinh cho cụ, mỗi ngày 2 tiếng, xong lễ các bà chỉ uống ngụm nước chè tươi. Hôm đưa cụ đi an táng, các vãi đi ngót trăm người, có người lên sớm để tụng kinh trị huyệt, khi đưa tang có vị Ni trụ trì chùa làng đưa đến tận huyệt và cùng các vãi tụng kinh cho đến lúc mồ yên mả đẹp... Gia đình chỉ "thướng" vào khay của các cụ một chút tiền lẻ, tiền đó góp thêm nhang đăng ở chùa. Có thể nói miễn phí 100%. Và lượng các vãi tham gia đông gấp mấy chục lần đám 27 triệu.



Thiệt tình, mình không phải vô thần, vô Phật nhưng nhìn cảnh ông sư đội mũ hiệp chưởng, nhanh nhảu leo lên xe đẹp, mình có cảm giác như dịch vụ tuồng chèo, chứ không có cảm giác bình yên, êm ả và được an ủi như các bà ở quê niệm Phật. Các bà ở quê là tình làng, nghĩa xóm, ăn ở với nhau cả đời thì phải có cảm xúc và thành tâm cao hơn dịch vụ rồi... cả nhà nhỉ.


Trong ảnh là một xe rước Phật ở đám tang Hải Phòng và ba ảnh các vãi quê tôi đi hộ phúc đám tang.



Note: Mũ giống như hai bàn tay úp lại nên gọi là "hiệp chưởng" - chỉ riêng Phật Giáo Việt Nam mới có, do các vua triều Nguyễn chế ra để tặng cho các vị Tăng cang đội khi vào triều. Sau được dùng phổ cập, các vị Chủ sám thường đội trong các pháp hội trai đàn.
--> Read more..

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

BÁC TÔI




Bác là anh cả của mẹ tôi, năm nay đã 91 tuổi. Sau ít ngày mệt nặng, bác đã  lặng lẽ về với ông bà, tổ tiên…
Bác là người rất hiền hậu, cả đời không dám quát ai, tức giận lắm cũng nói ra những lời hiền khô. Năm 1955, quê loạn quá, bác gồng gánh đưa vợ con ra Hà Nội. Ở quê nhà ngang dãy dọc, ra Hà Nội làm dân nghèo thành thị, ngơ ngác thuê nhà, dệt cửi thuê qua ngày… Có lẽ vì thế, cả đời bác là nỗi nhung nhớ ngày xưa, nhung nhớ quê nhà. Tôi nhớ, Tết bác về quê ăn Tết thường đến rằm tháng Giêng mới ra Hà Nội.
Bác kể chuyện ngày xưa với anh em con cháu đến thuộc lòng. Thuộc lòng mà vẫn thích nghe lại. Nghe hoài khiến chúng tôi thấy như mình cũng tham gia vào ký ức đó. Từ chuyện việc họ, việc phe, đi tuần, đi lễ tết, chuyện nhỏ như sang quê ngoại ăn giỗ, chuyện thả diều đêm trăng, chuyện sinh hoạt của cha chú, anh em trong nhà đến những biến cố trong nhà, trong làng cứ như cuốn phim chiếu hoài mà người chiếu, người xem đều không chán. Những nhân vật trong các câu chuyện xa lắc đó như cụ Ký Quy, cụ Hai Lịch, cụ Quản Hán, cô Thầy, ông Cửu Võ, chú Lam… mà chúng tôi không biết nhưng lại rất thân thuộc.
Vì tha thiết với quê như thế nên nhà bác ở Hà Nội là một nửa gian phòng 24m2 quanh năm không mấy ngày không có khách quê. Có khi nửa đêm còn có người gọi cửa vì đi buôn bán theo tàu Yên Bái về xin ngủ nhờ. Vậy là người trong nhà lại sang nhà hàng xóm ngủ, nhường chỗ cho khách. Sáng mai bà bác lại giặt chăn, giặt chiếu vì mấy ông khách đi tàu về hôi hám quá.
Thời bao cấp nghèo khó nhưng nhà bác luôn luôn có khách ở lại ăn cơm. Cơm độn, thức ăn là đậu phụ, lạc rang, mà ngồi chéo cánh xẻ, tức là ngồi nghiêng mới đủ chỗ. Khổ thế nhưng hai bác không kêu ca, vẫn quý hóa, thân tình. Mà thế là khách không ngại… ai lỡ chân cũng ghé vào.
Sau này có nhà to hơn, rộng rãi bác thường nói: “Bây giờ rộng quá mà chả có ai ngủ lại để nói chuyện cho vui. Buồn rứt”…
Mấy hôm rồi, bác dở mê dở tỉnh nói đây không phải nhà mình, nhà mình ở xóm Trại, ở quê cơ mà... Vậy là con cháu đã đưa cụ về quê để cụ được sống những ngày cuối cùng trong ngôi nhà thân yêu của đại gia đình.
Bác tôi đã mang kho ký ức thấm đẫm tình làng nghĩa xóm, đầy ắp những chuyện về một làng quê êm đềm, đầm ấm ấy về với tổ tiên.
--> Read more..

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2014

MỐI TÌNH CẢI CÁCH


Gia đình cụ Ngó ở làng tôi rất nhiệt tình với kháng chiến. Nhà cụ giàu có, ở quê mà có nhà Tây, đẹp lắm. Cả nhà tham gia kháng chiến nên các con cụ tên là Quì, là Cánh, là Búp, là Nhụy… đều đổi tên mới thành Kháng, Chiến, Thắng, Lợi…

Cô Quì là chị cả, được gả cho anh hàng xóm, con một lương gia khá giả. Hai gia đình đã làm lễ ăn hỏi. Phong trào kháng chiến lên cao, cô rất hăng hái nhưng anh chồng kiên quyết không tham gia. Thế là cô “trả tiền trầu cau”, tức là thoái hôn, để toàn tâm toàn ý cho kháng chiến. Tiền bạc thóc lúa gia đình ùn ùn gánh lên chiến khu.




Giải phóng miền Bắc năm 1954, chị Qùi ( tên mới là Kháng) làm Chủ tịch Hội Phụ nữ xã... Tố chức vun vén cho chị  lấy anh Khoăn,  Chủ tịch xã - một cán bộ đang có uy tín lúc bấy giờ. Anh Khoăn bị tật nên tập tễnh từ nhỏ, anh cao lênh khênh, mặt nhăn nhó với dáng đi chấm phảy. Vốn không phải người làng, Khoăn được một gia đình hiếm muộn trong làng nhận làm con nuôi… Hai bên tổ chức đính hôn theo nếp sống mới. Cặp đôi như biểu hiện của mối tình cách mạng, con gia đình giàu có lấy người thuộc tầng lớp dưới, vốn bị coi là nghèo hèn, nay là lớp trên của thời đại mới. Cả hai tuy xuất thân khác nhau nhưng cùng chung lý tưởng.

Chưa kịp cưới thì Cải cách ruộng đất nổ ra, nhà cụ Ngó bị quy thành phần địa chủ kháng chiến. Thế là đang hồ hởi, hy vọng thì họ rơi xuống đáy. Anh Khoăn thể hiện ngay lập trường giai cấp, từ bỏ con nhà địa chủ… Khoăn còn thể hiện sự kiên quyết đoạn tuyệt bằng cách bắt cụ Ngó và cô Quì ra quét chợ, việc xưa nay của mõ. Trong mấy chục địa chủ, công việc bị hạ nhục nhất này lại rơi xuống nhà cụ Ngó - địa chủ chui đầu vào kháng chiến để phá hoại.

Sau này, bà Quì được gả cho một ông người làng, con nhà tử tế nhưng ông này không thật hồn, hâm hâm, dở dở. May thay, sau đó các con bà đều giỏi giang, tử tế. Vợ chồng bà bỏ quê ra HN sinh sống. Bà Quì mới cách đây mất vài năm.

Chuyện tình duyên lận đận của bà không biết các con có biết không nhưng trong làng đôi khi vẫn kể lại…

Đang dở chuyện cải cách nên kể thêm chuyện này cho vui.
--> Read more..

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

ĐI Ị THỜI BAO CẤP


Chả hiểu cơn cớ gì mà mấy sự kiện văn hóa ( Triển lãm CCRĐ, rồi Đèn Cù) đều dẫn về chuyện xưa. Xưa khổ lắm, nhắc làm gì nhỉ? Chỉ xin ví dụ chuyện đi ị, để ai chưa biết thì thấu hiểu.

Trong Đèn Cù có chuyện, ở Khu văn công Mai Dịch, có dãy nhà vệ sinh, chỉ vài hôm  là mất hết cửa. Vậy là các nữ nghệ sĩ lớn nhỏ, minh tinh, công chúa, nữ hoàng trên sân khấu, mỗi khi đi vô đó mang đều theo cái nón trắng để che chỗ hiểm. Như vậy ai có nhu cầu mà đi ngang qua, tìm chỗ cũng thấy mặt nhau. Chưa kể, một bọn trẻ choai mất dạy, ngồi sau nhà vệ sinh ngó ngược lên coi, vì nhà vệ sinh dưới trống hoác, để tiện xúc phân ra. Tởm thế đây.


 Hoàng Cúc, một ngôi sao sân khấu hồi đó.

Loại nhà vệ sinh như thế phố biến ở Hà Nội những năm đó, dành cho những nhà không có nhà vệ sinh. Ở khu tôi ở ( Kim Mã, Ba Đình) có cái nhà vệ sinh như thế. Mỗi người có nhu cầu phải mang theo một miếng vải hay nilon có cán như cái cờ, để ra đó che lên thay cửa, kèm theo cái bô dội nước. Mỗi buổi sáng dân cư trong khu đứng lố nhố quanh nhà vệ sinh chờ đến lượt. Hồi bao cấp cái gì cũng xếp hàng nhưng xếp hàng đi ị là kinh khủng nhất chăng?!


Xếp hàng mua rau

Có hôm đi qua tôi thấy một ông chủ tiệm may cầm bô chờ, gần đó một cô bé 18 tuổi xinh như mộng - người yêu của con trai ông ấy cũng đang cầm bô và chờ đợi. Bi hài hết cỡ…

Loại nhà vệ sinh này rất tởm, có khi giòi bò lên chân… Đi vệ sinh về tắm ba lần xà phòng “Hoa nhài” chưa hết mùi.

Chỉ một chuyện đó thôi, đủ thấy đời sống tinh thần và vật chất của người dân mình kinh khủng đến thế nào. Bây giờ, so với hồi đó, cách đây trên 20, là quá happy, nếu cứ so từ khâu “đầu ra” này.
--> Read more..

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Bà Nội


Mới rồi ghi bổ sung gia phả, nghe lại nhiều chuyện về ông bà. Xin chép lại vài chuyện về bà tôi, đều là những chuyện 1954 trở về trước.

-Nhà có mấy khung cửi dệt, nên luôn có thợ đến dệt thuê. Một chị thợ dệt khéo tay lắm, nhưng hết tháng, trả công xong bà mới nói: Từ nay tôi không mướn chị nữa. Chị không thực thà, phiên chợ trước chị xé trộm vải, tôi nhìn thấy nhưng không muốn nói. Muốn có việc làm phải thực thà mới được…

Sau này người nhà biết chuyện tức lắm, nói sao bà không bắt tận tay lại để cho nó lấy trộm như thế. Bà bảo, mình bắt quả tang thì người ta xấu hổ, mà chả ai dám mướn nữa… Mình làm thế làm gì.

-Nhà có dăm mẫu ruộng, nhiều thóc nên người làm hàng xáo thường đến mua ( xưa gọi là đong thóc). Bao giờ bà tôi cũng mua bán dễ dãi. Khi giá gạo lên xuống, phiên chợ trước giá cao, phiên sau xuống thấp thì bà luôn bớt cho họ mấy giá cho ngang với phiên sau. Bà bảo: Họ lấy công làm lãi thôi, bớt cho họ có chút lãi.



-Hồi cải cách ruộng đất, người ta xúi một bà cô tôi, gọi ông tôi là chú đứng lên tố. Bà cô tôi năm nay 91 tuổi nói với Đội: Tôi chỉ nói với các anh thế này thôi, có hôm tôi đi ngang qua cổng nhà chú, bà thím tôi thấy gọi lại bảo, nhà vừa gặt xong ruộng đồng trên, chị vào nhà ăn vài bát cơm, nhà đang sắp ăn. Xong rồi lên gánh mấy gánh rạ về nhà mà đun… Chú thím tôi như thế thì các anh bảo tôi tố thế nào. Anh cán bộ Đội cũng phải cười mà nói : Chịu chị.

Hồi tôi còn nhỏ, nhớ mãi những đêm hè ngủ với bà, lúc đó chưa có điện, tay bà thì khẳng khiu mà bà quạt cho tôi xà xã cả đêm. Bà là người nhẫn nại vô cùng, không bao giờ kêu ca, phàn nàn, không bao giờ chê trách ai. Biết nhưng để trong lòng thôi. Bà tôi thường bảo: một sự nhịn là chín sự lành. Ngày xưa, có người đi lấy chồng, bà mẹ buộc cho con hòn sành vào dải yếm, các cháu có biết để làm gì không? Đấy là mẹ dặn con nên nhẫn nhịn đấy, nhẫn nhịn như hòn sành ấy, nói thật ít thôi mới êm ấm cửa nhà...

Con cháu ngày nay no ấm, cũng là nhờ phúc đức của tổ tiên ông bà. Ngày rằm tháng 7 ghi lại vài hàng để nhớ đến bà tôi.
--> Read more..

Flags

Flag Counter